Hậu quả và ý nghĩa Trận_Di_Lăng

Thất bại Di Lăng-Khiêu Đình là đòn nặng nề đối với cá nhân Lưu Bị và chính quyền Thục Hán mới thành lập[24]. Tuy quân số tham gia chiến dịch không lớn tới 70 vạn người mà Tam Quốc diễn nghĩa mô tả, nhưng thất bại này khiến Kinh châu không thể khôi phục, chiến lược "từ Kinh, Ích giáp công đánh trung nguyên" mà Gia Cát Lượng đã vạch ra trong Long Trung đối sách không còn khả năng thực hiện được[19]. Phần Kinh châu thuộc Thục bị mất toàn bộ vào tay Đông Ngô không khôi phục được; địa bàn Kinh châu chỉ còn do Ngô và Ngụy chia nhau nắm giữ, trong đó Đông Ngô chiếm phần lớn ở phía nam[25].

Thất bại Di Lăng là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử quân sự và chính trị của nhà Thục Hán. Sức quân, sức nước của Thục Hán bộc lộ suy yếu rõ ràng; bản thân chính quyền tự xưng là kế thừa ngôi chính thống của nhà Đông Hán bắt đầu đi vào con đường gập ghềnh[19]. Còn về phần mình, vì hối hận trước hàng loạt sai lầm của bản thân, Lưu Bị không dám về Thành Đô nữa, mà ở lại thành Bạch Đế, ôm bệnh rồi mất một năm sau (223).

Đúng như phân tích của đại thần Hoa Hâm bên phía Tào Ngụy: hai nước Ngô và Thục vốn nhỏ bé, nếu liên minh còn có thể đứng vững, song lại quay ra đánh nhau thì càng dễ mất. Hai nước nhỏ tranh chiến làm cả hai bị hao tổn khiến Tào Ngụy hưởng lợi. Với hoàn cảnh đó, chỉ có một mình Tào Ngụy có đủ khả năng thực hiện thống nhất[19].